TỪ VIỆC PHILLIPPINES RÚT KHỎI TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ: NHÌN LẠI HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA ICC

Ngày đăng: 15/04/2022

Ngày 13 tháng 3 năm 2018, Philippines đã gửi thông báo chính thức tới Liên hợp quốc về việc rút khỏi Hiệp ước thành lập Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC), cơ quan đang xem xét chiến dịch chống tội phạm ma túy đẫm máu của Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte. Theo thống kê trong các báo cáo của cảnh sát Philippines, Kể từ khi ông Duterte lên nắm quyền vào cuối tháng 6 năm 2016 và tuyên bố một “cuộc chiến chống ma túy”, hơn 14.000 người đã bị sát hại[1]. Do đó, ICC đã cáo buộc ông Duterte phạm tội ác chống lại loài người khi thực hiện chiến dịch chống tội phạm ma túy đẫm máu kéo dài tại nước này.

Ngày 15 tháng 3 năm 2018, trong bức thư gửi tới Liên hợp quốc (cơ quan giám sát các thỏa thuận thành lập ICC), Philippines cho biết nước này đã quyết định rời khỏi Tòa án này. Bức thư nêu rõ: "Quyết định rút lui là lập trường kiên định của Philippines chống lại những người sẽ chính trị hóa và vũ khí hóa các quyền con người". Theo quy định của Quy chế Rome, phải mất một năm kể từ khi Liên hợp quốc nhận được thông báo trên, quyết định rời khỏi ICC của Philippines mới chính thức có hiệu lực.

Tuy nhiên, qua sự kiện Philippines chính thức gửi thông báo rút lui khỏi ICC, chúng ta không thể không nhìn lại hiệu quả hoạt động của Tòa án này - một thiết chế đang bị đặt rất nhiều nghi vấn trong quá trình hoạt động.

1. ICC là gì?

Tòa án Hình sự quốc tế (ICC - International Criminal court theo tiếng Anh và Cour pénale internationale theo tiếng Pháp) được thành lập theo Quy chế Rome tại hội nghị ngoại giao do Đại hội đồng Liên hợp quốc tổ chức tại Rome (Ý) ngày 17 tháng 7 năm 1998. Quy chế có hiệu lực ngày 01 tháng 7 năm 2002 sau khi quốc gia thứ 60 phê chuẩn. Hội đồng các quốc gia thành viên đã bầu thẩm phán vào tháng 2 năm 2003. 18 thẩm phán được bầu đã tuyên thệ nhậm chức vào ngày 11tháng 3 năm 2003. Đến hết năm 2017, ICC đã có 124 quốc gia thành viên gồm hầu hết các quốc gia ở châu Âu, Nam Mỹ và châu Phi. Tuy nhiên, đến nay các cường quốc như Nga, Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ vẫn chưa gia nhập ICC[2].

Tòa án này thường chỉ xét xử những trường hợp khi bị can là một quan chức của các quốc gia thành viên, với những tội phạm xảy ra trên lãnh thổ của họ, hoặc xét xử những vụ án do Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đề nghị.

Hệ thống Tòa án này được thiết lập ra để bổ sung cho nền luật pháp hiện hành của một quốc gia:

  • Tòa sẽ chỉ có quyền xét xử khi hệ thống luật pháp quốc gia không muốn hoặc không thể điều tra hay xét xử những tội phạm nói trên.
  • Nhiệm vụ chính của việc điều tra và trừng phạt những tội phạm thường được giao cho mỗi quốc gia có trách nhiệm phụ trách.

Cho đến nay, ICC đã điều tra 06 vụ án. Tất cả đều xảy ra tại châu Phi, gồm các nước: Uganda, Cộng Hoà Dân Chủ Congo, Cộng Hòa Trung Phi, Darfur (Sudan), Cộng Hòa Kenya và Libya[3].

ICC đã tiến hành truy tố 39 cá nhân và ban hành lệnh truy nã đối với 31 người khác. Có 7 người đang bị giam giữ và Tòa đang trong tiến trình xét xử 22 người khác. Có 17 vụ truy tố đã hoàn tất với kết quả là 4 bị cáo bị buộc tội, 1 trắng án, 8 bị cáo bị ngưng truy tố. Có một vụ không tuân thủ nguyên tắc thừa nhận và 4 bị cáo qua đời trước khi phiên xử kết thúc. Cả 4 tội phạm của ICC đều là những người từ châu Phi. Tội phạm thứ nhất của ICC là Thomas Lubanga Dylio một người Congo bị tuyên án tổng cộng 14 năm tù vào năm 2012 vì phạm tội ác chiến tranh gồm có cưỡng bức trẻ em đi lính. Người thứ hai là Germain Katanga cũng là người Congo bị tuyên án 12 năm tù vào năm 2014 vì phạm tội ác chiến tranh liên quan tới một vụ thảm sát hơn 200 thường dân trong một ngôi làng tại Bogoro. Người thứ ba là Jean-Pierre Bemba cũng từ Congo bị tuyên án 18 năm tù vào tháng 3 năm 2016 vì phạm tội ác chiến tranh liên quan tới các vụ hãm hiếp tập thể thường dân. Gần đây nhất là vào tháng 8 năm 2016 khi Ahmad Al Faqi Al Mahdi một thánh chiến quân từ Mali đã nhận tội phá hủy di sản văn hóa thế giới vì đã ra lệnh phá hủy 9 lăng mộ và một ngôi đền ở thành phố Timbuktu.

  1. 1.1. Những tội phạm thuộc thẩm quyền của ICC

Theo Điều 5 của Quy Chế Rome, ICC có thẩm quyền trên bốn loại tội, đó là “những tội đáng quan tâm nhất cho toàn bộ cộng đồng quốc tế”, bao gồm: tội diệt chủng, tội đối với đồng loại, tội phạm chiến tranh và tội hiếu chiến xâm lăng. Ngoại trừ tội hiếu chiến, Quy Chế Rome đã định nghĩa cụ thể mỗi loại tội phạm nêu trên. Do đó, ICC sẽ không tiến hành việc truy tố tội hiếu chiến cho đến khi các nước thành viên đồng ý về định nghĩa của tội phạm này và vạch ra những điều kiện mà dựa theo đó can phạm sẽ bị kết án.

Tháng 6 năm 2010, trong đại hội để tái duyệt những định nghĩa đã được thông qua trong lần tổ chức tại Kampala Uganda, các quốc gia thành viên đã thông qua định nghĩa của “tội phạm hiếu chiến” song song với việc nới rộng thẩm quyền của Tòa Án Quốc Tế trên những lĩnh vực trên. Tòa Án Quốc Tế chỉ có thể bắt đầu kết án tội hiếu chiến này vào năm 2017. Ngoài ra, tòa cũng nới rộng phạm vi của tội phạm chiến tranh để bao gồm thêm việc xử dụng một số loại vũ khí trong một cuộc tranh chấp vũ trang không dính dấp đến nhiều nước (mang tính chất quốc tế).

Nhiều quốc gia muốn đưa tội khủng bố và buôn lậu ma túy vào danh sách các tội phạm của Pháp Chế Rome. Tuy nhiên một số quốc gia đã không đồng ý về định nghĩa của danh từ khủng bố, đồng thời cũng quyết định không kèm thêm tội buôn lậu ma túy, vì điều này sẽ tạo thêm gánh nặng cho khả năng hạn chế của tòa hiện nay.

Ấn độ cho rằng việc xử dụng vũ khí nguyên tử và vũ khí huỷ diệt hàng loạt nên được liệt kê vào tội phạm chiến tranh, nhưng cuối cùng đề nghị này đã bị phủ quyết. Ấn độ e ngại rằng luật hiện hành của ICC, cho thấy là việc xử dụng vũ khí huỷ diệt hàng loạt vô hình chung không bị xếp vào hàng tội phạm chiến tranh. Đây là một thông điệp bất thường gửi đi cho cộng đồng quốc tế.

Một số cho rằng, định nghĩa tội phạm liệt kê trong Pháp Chế Rome quá tổng quát hoặc quá mơ hồ. Thí dụ như Trung Quốc cho rằng định nghĩa “tội phạm chiến tranh” đi quá mức thường được định nghĩa trong những quy định luật quốc tế hiện nay.

  1. 1.2. Thẩm Quyền về Lãnh thổ

Trong các cuộc hội đàm dẫn đến việc thành lập Pháp Chế Rome, một số lớn quốc gia cho rằng tòa nên có thẩm quyền toàn cầu. Tuy nhiên, đề nghị này bị bác bỏ, phần lớn là do sự chống đối của Hoa Kỳ. Cuối cùng tòa đã đạt được một thỏa hiệp để thi hành thẩm quyền đối với các hoàn cảnh:

  • Khi bị can phạm tội là công dân của một nước thành viên (hoặc khi quốc gia của bị can chấp nhận lệ thuộc thẩm quyền của tòa);
  • Khi tội cáo buộc xảy ra trên lãnh thổ của nước thành viên (hoặc quốc gia chủ quyền các lãnh thổ mà tội phạm xảy ra chấp nhận lệ thuộc thẩm quyền của tòa);
  • Khi vụ án được Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ủy nhiệm.
  1. 1.3. Thẩm Quyền về thời gian

Thẩm quyền của ICC chỉ có hiệu lực đối với các tội xảy ra từ ngày 01 tháng 7 năm 2002 trở về sau (ngày mà Pháp Chế Rome có hiệu lực). Những tội phạm xảy ra trước đó sẽ không bị hồi tố. Khi một quốc gia trở thành hội viên của Pháp Chế Rome sau ngày nói trên, ICC có thẩm quyền xét xử các tội phạm xảy ra kể từ khi Pháp Chế Rome có hiệu lực.

2. Những nghi ngờ trong hiệu quả hoạt động của ICC

Sau 15 năm tồn tại, những nghi ngờ về hiệu quả hoạt động của ICC dường như đang vượt lên trên so với kỳ vọng. Vụ xét xử cựu tổng thống Bờ Biển Ngà (Laurent Gbagbo)[4] giống như một tấm gương phản chiếu rõ nét những điểm yếu của tòa án vốn đem lại nhiều hi vọng từ khi ra đời này. Liệu nó có phải là nấm mồ chôn một ước mơ từ hàng trăm năm: đoạn tuyệt với quyền miễn truy tố của các lãnh đạo chính trị và quân sự cho đến các nguyên thủ quốc gia?[5]

  1. 2.1. “ICC - Tòa án dành cho châu Phi ”?

Với  tính chất bổ sung cho các Tòa án quốc gia, Tòa án hình sự quốc tế chỉ có thẩm quyền khi các vụ án không xét xử được tại các quốc gia có liên quan, hoặc bởi chính quyền quốc gia đó không thiện chí, hoặc bởi hệ thống tư pháp quốc gia không có khả năng thực thi pháp luật. Tính chất bổ sung này thường bị xem như một nguyên tắc phân biệt đối xử: các quốc gia bị nhắm tới trong các vụ xét xử quốc tế là những quốc gia nghèo nhất, điều hành kém nhất vì hầu hết hệ thống tư pháp của các quốc gia này đều lạc hậu và không có khả năng thực thi pháp luật. Đặc biệt, các quốc gia nghèo có hệ thống tư pháp kém hiệu quả hiện nay hầu hết đều đến từ lục địa đen. Cho đến năm 2015, các vụ án mà ICC xét xử chủ yếu là người châu Phi. Chính trong bối cảnh đó mà Liên minh châu Phi, trong khuôn khổ hội nghị thượng đỉnh diễn ra vào ngày 31/01/2016, đã đồng ý xem xét ý định rút lui tập thể của các thành viên tổ chức này ra khỏi ICC.

Những cáo buộc về sự không công bằng của ICC càng trở nên mạnh mẽ. Năm 2013, Tổ chức Ân xá Quốc tế đã nêu ra “luật của kẻ chiến thắng[6] . Gần đây, Tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng hàng đầu của việc ICC “đạt được những bước tiến trong các cuộc điều tra đối với các lực lượng thân Ouattara”[7].Trước những tội ác của các lực lượng này mà “tất cả mọi người đều biết ” như luật sư Emmanuel Altit đã nói, tại sao bà công tố viên của ICC lại tỏ ra thụ động? Bà này cũng đã im lặng trước vai trò của quân đội Pháp trong việc lật đổ Laurent Gbagbo và đưa một chính khách thân với tổng thống Pháp lúc đó là Nicolas Sarkozy lên nắm quyền. Không có một quân nhân hay dân thường Pháp nào bị chỉ định làm nhân chứng[8]. Mùa xuân năm 2013, hồ sơ kết tội ông Gbagbo ngắn đến mức phòng sơ thẩm của ICC đã phải yêu cầu công tố viên, bà Bensouda, đưa ra những “bằng chứng bổ sung ”, buộc bà này phải vội vàng xem lại tài liệu của mình để khỏi bị chỉ trích là vô trách nhiệm một cách đáng xấu hổ. Và luật sư Altit đã gọi đây là một “vụ án chính trị”.

Vai trò của Pháp trong việc lật đổ ông Larent Gbagbo gợi ra rất nhiều nghi vấn. Ngày 02/02/2016, thẩm phán thụ lý người Pháp Sabine Kheris đã yêu cầu gửi trả hồ sơ kết tội các cựu bộ trưởng Pháp Dominique de Villepin, Michèle Alliot-Marie và Michel Barnier về tòa án Pháp. Những cựu bộ trưởng này có thể đã cho phép các lính đánh thuê người Belarus, những người bị tình nghi là đã đánh bom trại Bouaké năm 2004, bỏ trốn. Chín lính Pháp thuộc lực lượng gìn giữ hòa bình đã thiệt mạng và Paris đã tận dụng tâm lý mà cuộc tấn công này tạo ra để “trả đũa ” bằng cách phá hủy phi đội của Bờ Biển Ngà. Trong quan điểm của lực lượng thân tổng thống bị phế truất, nước Pháp thực chất đang tìm cớ cho một chiến lược loại bỏ ông Gbagbo[9].

Theo lời nói đầu trong Quy chế Rome, ICC đã được coi như một “tòa án an ninh ”[10], một tòa án không chỉ có chức năng tư pháp. Nó mang một tôn chỉ vì hòa bình: những tội ác thuộc quyền tài phán của nó được coi như đe dọa “hòa bình, an ninh và cuộc sống ấm no trên thế giới”. Tuy nhiên làm sao có thể có được sự hòa giải nếu công lý không thực sự công bằng? Điều gì sẽ xảy ra ở Bờ Biển Ngà nếu Laurent Gbagbo bị kết án dựa trên những cơ sở mong manh đến vậy? 

Vụ án Laurent Gbagbo là minh chứng cho việc biến luật pháp hình sự quốc tế  thành công cụ chính trị: “Người ta có cảm giác rằng các cường quốc quốc tế hay khu vực đang biến ICC thành một con bài ngoại giao mà họ có thể giơ lên khi có lợi.... Cuối cùng thì họ chỉ làm suy yếu một thể chế mà chính họ muốn xây dựng và đang tài trợ kinh phí[11]. Một trong những chức năng quan trọng của luật pháp hình sự quốc tế không chỉ là trấn áp tội phạm mà quan trọng hơn là răn đe và ngăn ngừa. Và mục tiêu này chỉ có thể thực hiện được khi cơ quan xét xử các vụ án quốc tế có uy tín. Chính thông qua sự trừng phạt nghiêm khắc mà “người ta ngăn ngừa một cách chắc chắn nhất các tội ác”.

  1. 2.2. Căn cứ khởi tố mang tính chủ quan và sự phụ thuộc của ICC vào sự hợp tác của các quốc gia

Theo Quy chế Rome, Công tố viên có thể quyết định mở các cuộc điều tra và các vụ xét xử một cách rất bí mật và dựa trên những tiêu chuẩn mang tính chủ quan. Trên thực tế, sự lựa chọn này rất đáng ngờ: không có một tội ác quốc tế nào liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến các quốc gia phát triển và có tiềm lực kinh tế chính trị. Là thành viên của ICC từ ngày 01 tháng 4 năm 2015, Palestine đã gửi tới công tố viên loạt tài liệu đầu tiên về việc chiếm đóng của Israel ở Cisjordanie[12], việc Israel tấn công dải Gaza năm 2014 và số phận của các tù nhân Palestine. Nhưng không có vụ nào bị đưa ra xét xử [13].

Ba quốc gia thành viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là Mỹ, Nga và Trung Quốc cùng rất nhiều các quốc gia là thành viên của Liên hợp quốc khác không công nhận ICC. Trong khi đó tội ác phải được thực hiện tại một quốc gia công nhận ICC hoặc người bị cáo buộc là công dân của một quốc gia thành viên thì ICC mới có quyền tài phán, điều này khiến cho hiệu quả hoạt động của ICC trên thực tế bị hạn chế rất nhiều.

Trong vụ xét xử tổng thống Laurent Gbagbo của Bờ Biển Ngà cũng đã cho thấy sự phụ thuộc của ICC vào sự hợp tác của các quốc gia là rất lớn. Bà Simone Gbagbo, phu nhân cựu tổng thống, cũng chịu lệnh bắt giam của ICC hôm 29/2/2012 vì tội ác chống nhân loại. Tuy nhiên, chính phủ Bờ Biển Ngà từ chối giao nộp bà này cho ICC. Trong chuyến thăm Paris ngày 04 tháng 02 năm 2016, ông Ouattara - Tổng thống Bờ Biển Ngà còn khẳng định quốc gia này sẽ không giao nộp bất cứ công dân nào cho La Haye.

Không phiên xét xử nào có thể bắt đầu mà không có sự có mặt của bị cáo. Vậy mà ICC lại không thể nhờ cậy đến cảnh sát quốc tế. Nhiều “tình huống ” xét xử của ICC bị treo như vậy do thiếu sự hợp tác của các quốc gia liên quan[14]. Một số vụ việc đã bị khép lại do không nhận được từ các quốc gia những tài liệu thiết yếu. Joseph Kony, một người nổi dậy Uganda bị kết tội chống lại nhân loại đã nằm trong tình trạng “không tìm thấy được” từ năm 2004. Cũng như vậy, việc từ bỏ vụ án chống lại Uhuru Kenyatta, tổng thống Kenya, năm 2013 một phần cũng do thiếu chứng cứ bởi chính phủ nước này luôn từ chối giao nộp cho ICC một số tài liệu quan trọng. Tổng thống Sudan Omar Al-Bachir, người chịu hai lệnh bắt giam, vẫn sống bình yên, thậm chí còn đi ra nước ngoài ngay cả khi hôm 15/3/2016, Tòa án tối cao Nam Phi đã kết tội chính phủ là đã để Al-Bachir trốn thoát trong chuyến thăm Nam Phi tháng tháng 6 năm 2015. Nhưng dù không thiếu tài liệu, vụ án Laurent Gbagbo đã thể hiện sự thiếu chuyên nghiệp của ICC. Ngày 05 tháng 02 năm 2016, danh tính của các nhân chứng được bảo vệ đã bị tiết lộ trên kênh thông tin chính thức của ICC.

  1. 2.3. ICC và chủ quyền quốc gia

Trong các vụ án đã và đang được xét xử của ICC, chúng ta có thể thấy tính chủ quyền quốc gia đã bị hạ xuống rất thấp. ICC dường như đang tác động mạnh mẽ đến vấn đề này. Vụ việc điều tra ông Rodrigo Duterte là một ví dụ cụ thể, việc thực thi các chính sách trong hoạt động quản lý nhà nước của quốc gia đã được đưa ra xem xét ở một Tòa án quốc tế. Điều này khiến các quốc gia cần phải cân nhắc nhiều trong việc tham gia Quy chế Rome. Thẩm quyền “bao trùm” của ICC đã khiến các Nhà lãnh đạo, nguyên thủ quốc gia bị hạn chế trong việc đưa ra các chính sách cứng rắn trong “hoạt động trị an” của Nhà nước. Những năm gần đây, chính nhược điểm này đã trở thành nguyên nhân của việc nhiều quốc gia tuyên bố xin rút khỏi ICC.

Kết luận:

Sau 15 năm tồn tại, ICC không thể tự biện hộ cho mình là thiếu kinh nghiệm. Nhưng từ 2002, tòa án này mới chỉ xét xử được sáu vụ, trong đó hai vụ được thi hành án. Mặc dù, ICC đã tiến hành truy tố 39 cá nhân và ban hành lệnh truy nã đối với 31 người khác. Tuy nhiên, cũng chỉ có 7 người đang bị giam giữ và Tòa đang trong tiến trình xét xử 22 người khác. Thật là một bảng tổng kết không lấy gì làm sáng sủa trong khi mỗi năm tòa án này được tài trợ từ 100 đến 130 triệu euro kinh phí từ các quốc gia thành viên.

Thông qua việc Philippine rút khỏi ICC để nhìn lại hiệu quả hoạt động của Tòa án này, có thể thấy chỉ cần từ bỏ việc né tránh và sự trì trệ trong quá trình xét xử thì ICC có thể lấy lại một chút công bằng và uy tín của mình. Còn nếu ICC không hoạt động theo đúng với nguyên tắc và bản chất của nó, rất có thể số phận của ICC sẽ chỉ là một tòa án quốc tế đơn thuần mang tính chất tượng trưng, là thẩm phán dành cho một số ít quốc gia.

ThS. Lê Đình Quyết


[1] Theo các báo cáo của cảnh sát Phillippines tính đến hết tháng 12 năm 2017.

[2] https://en.wikipedia.org/wiki/International_Criminal_Court

[3] https://www.icc-cpi.int/pages/cases.aspx

[4] https://www.icc-cpi.int/cdi/gbagbo-goude

[5] Đọc “La Cour pénale internationale en accusation ”, Le Monde diplomatique, 11/2013.

[6]Côte d’Ivoire: la loi des vainqueurs. La situation des droits humains deux ans après la crise postélectorale ” (PDF), Amnesty International, 26 février 2013.

[7]Pour que la justice compte. Enseignements tirés du travail de la CPI en Côte d’Ivoire ”, Human Rights Watch, 4 août 2015.

[8] Laurent Ggagbo và François Mattei, Pour la vérité et la justice. Côte d’Ivoire: révélations sur un scandale français, Editions du Moment, Paris, 2014.

[9] Bernard Houdin, Les Ouattara. Une imposture ivoirienne, Editions du Moment, Paris, 2015.

[10] Jens Ohilin, “Peace, security and prosecutorial discretion ”, The Emerging Practice of the International Criminal Court, Martinus Nijhoff Publishers, Boston, 2009.

[11] L’Opinion.fr, 8 février 2016.

[12] Lãnh thổ tranh chấp hiện nay của Palestine và Israel

[13] Francesca Maria Benvenuto, “Soupçons sur la Cour pénale internationale“, Le Monde diplomatic, 04/2016.

[14] Cf. “La Cour pénale internationale. Un jouet aux mains des pouvoirs politiques ? Réflexions de Hans-Peter Kaul, juge de la Cour pénale internationale ” (PDF), 5 novembre 2013, https://www.fes.de

Bài viết cùng danh mục

0947202189