THỰC TIỄN CÁC BIỆN PHÁP ĐẦU TƯ LIÊN QUAN ĐẾN THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM

Ngày đăng: 19/04/2022

Khái quát chung về các Biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại theo quy định của Hiệp định TRIMs trong khuôn khổ WTO

        Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS - The Agreement on Trade-Related Investment Measures) được đàm phán trong vòng đàm phán Uruguay và có hiệu lực cùng với sự ra đời của WTO năm 1995. Hiệp định này cho thấy một cố gắng khá khiêm tốn để điều chỉnh các biện pháp đầu tư có thể hạn chế hoặc bóp méo thương mại quốc tế. Trên thực tế, Hiệp định này chỉ xác định những biện pháp đầu tư không phù hợp với yêu cầu của GATT liên quan đến đối xử quốc gia và cấm những biện pháp hạn chế định lượng.

        Lý do để Hiệp định này có diện mạo như hiện nay chính là kết quả của các quan điểm khác nhau, một phần là nhờ mức độ giải quyết của WTO đối với những vấn đề về đầu tư và một phần là ở lợi ích kinh tế của các yêu cầu thực hiện khác nhau. Trong vòng đàm phán Uruguay, một số nước (đặc biệt là Hoa Kỳ) lên tiếng ủng hộ những hạn chế sâu rộng đặt ra cho những yêu cầu về hoạt động, trong khi các nước đang phát triển nhìn chung có ý kiến là chỉ nên đưa vào những biện pháp có thể bóp méo thương mại một cách trực tiếp và mạnh mẽ.[1]

        Hiệp định TRIMs không đưa ra một định nghĩa chính xác về các biện pháp bị cấm. Thay vào đó, nó là một bản danh sách minh họa bao gồm những ví dụ về những biện pháp liên quan đến thương mại bị cấm. Trong bản danh sách này có những yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa, những yêu cầu liên quan đến tiêu dùng trong nước, các yêu cầu khác nhau về cán cân thương mại và một số yêu cầu khác. Những yêu cầu như vậy bị cấm khi chúng là những điều kiện bắt buộc đối với việc thành lập và khi là những điều kiện để hưởng ưu đãi (ví dụ như trợ cấp). Hiệp định TRIMs không phân biệt giữa các biện pháp dành cho các nhà đầu tư trong nước hay nhà đầu tư nước ngoài. Hiệp định này chỉ áp dụng đối với thương mại hàng hóa.

        Mặt khác, việc yêu cầu nhà đầu tư phải xuất khẩu một sản phẩm của mình không bị coi là xung đột với GATT. Điều này được thể hiện rõ ở Ban Hội thẩm, thông qua FIRA (Luật rà soát đầu tư nước ngoài) năm 1984, sau khi Hoa Kỳ khiếu nại về một số yêu cầu của Canada đối với các nhà đầu tư nước ngoài được quy định trong Luật ra soát đầu tư nước ngoài (FIRA).

        Hiệp định TRIMs còn làm minh bạch hơn và làm rõ cách thức loại bỏ những biện pháp bị cấm hiện tại. Tất cả mọi thành viên WTO đều có 90 ngày để thông báo về những yêu cầu không phù hợp với Hiệp định GATT. Sau khi Hiệp định TRIMs có hiệu lực, các nước phát triển có 2 năm, các nước đang phát triển có 5 năm, và các nước chậm phát triển có 7 năm để loại bỏ những biện pháp đã thông báo.

        Hiệp định cũng tạo cơ hội cho các nước có nhu cầu gia hạn thời kỳ chuyển đổi để phòng khi có những khó khăn đặc biệt nảy sinh trong quá trình thực hiện Hiệp định.

        Có thể thấy, mục tiêu chính của hiệp định TRIMs là nhằm thúc đẩy việc mở rộng, phát triển tự do hoá đầu tư và thương mại quốc tế để tăng trưởng và phát triển kinh tế của tất cả các nước tham gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, trên cơ sở đảm bảo tự do cạnh tranh. Ngoài ra, hiệp định cũng có tính đến các nhu cầu cụ thể về thương mại, phát triển và khả năng tài chính của các nước thành viên đang phát triển, nhất là các nước thành viên kém phát triển.

Cam kết của Việt Nam đối với Hiệp định TRIMs

        Việc thực hiện TRIMs đã đặt ra nhiều thách thức lớn cho các nước đang phát triển khi tham gia WTO, trong đó có Việt Nam. Đối với các nước đang phát triển, thời hạn đó là 5 năm. Tuy nhiên, thời gian này thường vẫn không đủ để các quốc gia hoàn thành việc xóa bỏ những chính sách đi ngược lại TRIMs. Khó khăn là ở chỗ nhiều nước không đủ khả năng để xác định đâu là các biện pháp không phù hợp với TRIMs, nên không thể hoàn thành việc xóa bỏ như TRIMs quy định đúng thời hạn.

        Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO từ tháng 01/2007 và chúng ta đã cam kết thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quy định trong TRIMs kể từ thời điểm gia nhập.

        Đối với Việt Nam, các nghĩa vụ theo Hiệp định TRIMs không phải là điều mới mẻ. Trong Hiệp định Thương mại song phương ký với Hoa Kỳ (BTA), Việt Nam về cơ bản đã cam kết thực hiện đầy đủ các quy định như của Hiệp định TRIMs, theo đó sẽ loại bỏ dần các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại không phù hợp với WTO (ví dụ tỷ lệ nội địa hóa, phát triển nguồn nguyên liệu trong nước …) trong 5 năm, và các TRIMs khác (yêu cầu xuất khẩu sản phẩm) trong khung thời gian tương tự. Trong gần 05 năm thực hiện BTA,  hệ thống pháp luật Việt Nam đã liên tục được hoàn thiện nhằm đáp ứng hầu hết các nghĩa vụ theo BTA. Đặc biệt, Luật Đầu tư năm 2005, có hiệu lực từ 1/7/2006, đã nội luật hóa đầy đủ các cam kết của Việt Nam trong BTA. Theo đó, Việt Nam cam kết mở cửa thị trường, đầu tư liên quan đến thương mại, không bắt buộc nhà đầu tư thực hiện các yêu cầu như: (i) ưu tiên mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ trong nước hoặc phải mua hàng hóa, dịch vụ từ nhà sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ trong nước; (ii) xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ đạt một tỷ lệ nhất định, hạn chế số lượng, giá trị hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu hoặc sản xuất, cung ứng hàng hóa trong nước;(iii) nhập khẩu hàng hóa với số lượng và giá trị tương ứng với số lượng và giá trị hàng hóa xuất khẩu hoặc phải tự cân đối ngoại tệ từ nguồn xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu;(iv) đạt được tỷ lệ nội địa hóa nhất định trong hàng hóa sản xuất. Hiện nay, Luật đầu tư 2014, có hiệu lực từ ngày 1/7/2015 cũng vẫn giữ nguyên các quy định này.

        Việt Nam đã cam kết tuân thủ hoàn toàn Hiệp định TRIMs ngay khi trở thành viên chính thức của WTO, cam kết xoá bỏ các rào cản về đầu tư, với mục tiêu tổng thể để tăng cường tính hấp dẫn, thông thoáng và minh bạch của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhìn chung mức độ cam kết đối với TRIMs trong WTO cao hơn nhiều so với cam kết của Việt Nam trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.

        Việc thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của Hiệp định TRIMs góp phần xóa bỏ các rào cản đối với đầu tư nước ngoài, nâng cao sức hấp dẫn của Việt Nam trong thu hút nguồn này, đặc biệt là đầu tư trong các ngành trước nay vẫn phải thực hiện các yêu cầu nói trên (như công nghiệp lắp ráp, sản xuất ô tô, xe máy, hàng điện tử, chế biến đường mía, dầu thực vật, sữa, gỗ...).  Mặt khác, việc xóa bỏ những yêu cầu về cân đối thương mại và cân đối ngoại tệ cũng tạo điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành sản xuất, chế biến các sản phẩm có lợi thế xuất khẩu của Việt Nam.

        Tuy nhiên, để duy trì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển nguồn nguyên liệu trong nước, cũng cần nghiên cứu áp dụng một số biện pháp mới thay thế cho các biện pháp trước đây theo nguyên tắc bảo đảm mục tiêu phát triển nhưng vẫn phù hợp với quy định của WTO. Chính phủ đang nghiên cứu áp dụng một số biện pháp thay thế, trong đó có việc thay tiêu chí xuất khẩu (để được hưởng ưu đãi) bằng các tiêu chí khác (về sử dụng lao động, về địa bàn đầu tư ..); khuyến khích các dự án đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ, khuyến khích đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và vùng nguyên liệu tập trung, nhất là ở các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn để hỗ trợ nguyên liệu cho các dự án nuôi trồng, chế biến các sản phẩm nông, lâm nghiệp v.v…

        Từ thực tế thực hiện TRIMs ở các nước đang phát triển và kinh nghiệm sau 11 năm gia nhập WTO, Việt Nam cần phải rút ra cho mình những bài học quý giá. Trước hết chúng ta cần tạo lập một môi trường đầu tư đồng bộ và tốt hơn, tích cực xây dựng năng lực, từ nguồn nhân lực đến cơ sở vật chất và tài chính, nhằm đảm bảo năng lực đàm phán và thực thi hiệu quả những cam kết kinh tế đa phương.

        Việt Nam cũng cần tranh thủ tối đa những lợi thế và cơ hội trong vai trò là thành viên chính thức của WTO trong thời gian một năm còn lại, cũng như đặt ra một lộ trình để thực hiện thành công những biện pháp cần thiết nhằm tạo dựng cho mình một nội lực mạnh về kinh tế, đảm bảo đủ khả năng thực hiện TRIMs một cách thành công.

Tình hình thực hiệp định TRIMS tại Việt Nam và vấn đề đặt ra

        Thực tế cho thấy, TRIMs (các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại) thường được áp dụng tại các nước đang phát triển, những nước mà trong chiến lược phát triển kinh tế của mình, vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được quan tâm hàng đầu.[2] Đặc điểm cơ bản của các nước này là nền kinh tế phát triển ở trình độ thấp, công nghệ sản xuất lạc hậu và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế kém. Xuất phát từ nhận thức cần phải tránh những hạn chế do hoạt động của các MNCs gây ra, vì sự phát triển của đất nước, bảo vệ và tăng cường khả năng cạnh tranh của các Công ty nội địa, đồng thời để đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán, Chính phủ các nước đang phát triển thường áp dụng TRIMs. Đó là những công cụ quan trọng và cần thiết đối với nền kinh tế của các nước này, mặc dù chúng có những ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại và đầu tư quốc tế. Khi gia nhập WTO, các nước phải cam kết loại bỏ TRIMs, điều này đồng nghĩa với việc các nước phải tìm các biện pháp vừa tuân thủ các quy định của WTO, nhưng đồng thời vẫn tạo cơ hội phát triển cho các ngành công nghiệp trong nước.

        Việt Nam đã có một quá trình áp dụng TRIMs với các mục tiêu cơ bản là vừa thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài, vừa đẩy mạnh phát triển sản xuất trong nước. Các biện pháp Việt Nam đã sử dụng trong thời gian qua là yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá, yêu cầu cân đối ngoại tệ, yêu cầu phải gắn với phát triển nguồn nguyên liệu trong nước và yêu cầu tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc. Trong đó, biện pháp được tập trung áp dụng nhiều nhất là yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá trong các ngành sản xuất, lắp ráp ôtô và phụ tùng ôtô; sản xuất, lắp ráp xe máy và phụ tùng xe máy; sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh và phụ tùng thuộc ngành điện tử, cơ khí - điện. Ngoài ra, các dự án chế biến gỗ, sữa, dầu thực vật, đường mía cũng thuộc đối tượng các ngành phải thực hiện chương trình nội địa hoá nhằm phát triển nguồn nguyên liệu trong nước. Song, do tính đặc thù nên phần lớn các dự án thuộc ngành này được xây dựng  với mục đích sử dụng nguồn nguyên liệu rẻ, sẵn có trong nước. Do vậy, các nhà đầu tư sẽ tự nguyện thực hiện chính sách nội địa hoá, kể cả trong trường hợp không được khuyến khích hoặc ưu đãi.

        Sau khi luật Đầu tư 2014 có hiệu lực, các quy định về các biện pháp đầu tư càng trở lên thông thoảng hơn. Nhiều quy định pháp luật phức tạp, gây khó khăn cho hoạt động của các các nhà đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam đang dần được loại bỏ. Các quy định này tâp trung vào một số vấn đề cụ thể:

        Quy định về lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại Việt Nam:

        Nhà đầu tư nước ngoài khi muốn đầu tư vào Việt Nam có thể đầu tư được vào tất cả các lĩnh vực, trừ các lĩnh vực bị cấm đầu tư; hoặc đó là các lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì nhà đầu tư phải đáp ứng đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các lĩnh vực bị cấm đầu tư hay hạn chế đầu tư của Việt Nam chủ yếu tập trung vào các dự án gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, văn hóa, đạo đức và sản xuất các hóa chất độc hại...

        Cụ thể, Luật đầu tư Việt Nam quy định 06 ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh bao gồm: (i) kinh doanh các chất ma túy theo quy định tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Luật; (ii) kinh doanh các loại hóa chất, khoáng vật độc hại quy định tại Phụ lục 2 ban hành kèm theo Luật đầu tư 2014; (iii) kinh doanh mẫu vật các loại thực vật, động vật hoang dã theo quy định tại Phụ lục 1 của Công ước về buôn bán quốc tế các loài thực vật, động vật hoang dã nguy cấp; mẫu vật các loại động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm Nhóm I có nguồn gốc từ tự nhiên theo quy định tại Phụ lục 3 ban hành kèm theo Luật đầu tư 2014; (iv) kinh doanh mại dâm; (v) mua, bán người, mô, bộ phận cơ thể người; (vi) các hoạt động liên quan đến sinh sản vô tính trên người.

        Về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện:  Luật đầu tư 2014 quy định cụ thể Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh theo nguyên tắc:   

  • Bãi bỏ các ngành, nghề và điều kiện đầu tư kinh doanh không hợp lý, không rõ ràng, tạo ra gánh nặng chi phí tuân thủ đối với nhà đầu tư;
  • Sửa đổi một số điều kiện đầu tư kinh doanh theo hướng giảm thiểu hình thức cấp phép, xác nhận hoặc chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để chuyển sang áp dụng chủ yếu hình thức ban hành quy định về tiêu chuẩn, điều kiện để nhà đầu tư tự đăng ký thực hiện và cơ quan quản lý tiến hành hậu kiểm;
  • Cập nhật, chuẩn xác tên gọi và hệ thống một số ngành, nghề nhằm phản ánh chính xác, minh bạch các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, tránh trùng lặp và tạo thuận lợi cho việc thực hiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.

        Trên cở sở đó, Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện quy định tại Phụ lục 4 của Luật đầu tư 2014 gồm có 267 ngành, nghề cụ thể. Việc quy định rõ những ngành nghề kinh doanh có điều kiện tạo ra sự minh bạch trong hệ thống pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài có thể thâm nhập vào thị trường Việt Nam.

Quy định về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài.

        Đối với các quy định về biện pháp đảm bảo đầu tư: Luật đầu tư 2014 quy định: Nhà nước đảm bảo quyền sở hữu tài sản hợp pháp của nhà đầu tư và cam kết bồi thường thỏa đáng, công bằng trong trường hợp trưng thu, quốc hữu hóa tài sản của nhà đầu tư phù hợp với quy định của Hiến pháp; Đảm bảo đối xử không phân biệt giữa các nhà đầu tư phù hợp với cam kết của Việt Nam theo các điều ước quốc tế; Đảm bảo việc chuyển lợi nhuận và thu nhập hợp pháp khác của nhà đầu tư ra nước ngoài; Đảm bảo cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư; Đảm bảo việc áp dụng nguyên tắc không hồi tố trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật thay đổi làm ảnh hưởng bất lợi đến ưu đãi đầu tư đã áp dụng đối với nhà đầu tư.

        Đối với các quy định về khuyến khích đầu tư: Theo Luật đầu tư 2014, các biện pháp khuyến khích đầu tư bao gồm các biện pháp ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư, cụ thể gồm có: Các biện pháp khuyến khích về thuế; Các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ thủ tục hành chính để tiến hành một phần dự án đầu tư; Các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ thủ tục hành chính để tiến hành một dự án đầu tư; Các biện pháp hỗ trợ phát triển trong quá trình đầu tư; Các biện pháp khuyến khích liên quan đến chính sách sử dụng đất, mặt nước, mặt biển, và các nguồn tài nguyên khác...

        Ngoài ra, để kêu gọi đầu tư, Nhà nước cũng đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ về chuyển giao công nghệ, đào tạo, dạy nghề, hỗ trợ đầu tư phát triển và dịch vụ đầu tư, hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Bên cạnh những chính sách chung theo quy định của pháp luật, các nhà đầu tư có thể tham khảo các chính sách khuyến khích về mặt bằng thực hiện dự án, chi phí quảng cáo, thưởng môi giới đầu tư, … từ các địa phương mà mình tiến hành kinh doanh, tạo dựng cơ sở.

        Có thể thấy, pháp luật Việt Nam đã tạo ra một môi trường đầu tư tốt cho các các nhà đầu tư khi quy định cả hai yếu tố đó là đảm bảo đầu tư và khuyến khích đầu tư. Yếu tố bảo đảm đầu tư là nền tảng quyết định sự lựa chọn của nhà đầu tư thì khuyến khích đầu tư lại giúp tăng tính cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư. Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại của Việt Nam về cơ bản phù hợp với các quy định của Hiệp định TRIMs trong khuôn khổ WTO. Tuy nhiên, việc thực hiện có hiệu quả các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại nhằm tìm các biện pháp vừa tuân thủ các quy định của WTO, nhưng đồng thời vẫn tạo cơ hội phát triển cho các ngành công nghiệp trong nước vẫn còn là một thách thức đối với Việt Nam trong quá trình thực hiện các quy định của WTO liên quan đến đầu tư.

Một số giải pháp thực hiện có hiệu quả các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại của Việt Nam[3].

1. Nhóm giải pháp liên quan đến đầu vào của các ngành công nghiệp

        Thứ nhất, xây dựng cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành kinh tế. Điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng quan trọng đến chi phí và rủi ro của các hoạt động đầu tư. Để có thể phát triển cơ sở hạ tầng, Việt Nam cần một lượng vốn rất lớn. Muốn huy động đủ vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng cần có quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, đa dạng hoá các nguồn vốn trong đó cần cố gắng giảm vốn nhà nước, tăng các nguồn vốn từ các thành phần khác như vốn nước ngoài, vốn tư nhân (PPI - Private Participation Infrastrycture) theo phương thức BOT, BT…. Đối với nguồn vốn nhà nước dùng cho phát triển cơ sở hạ tầng, cần tuân thủ nghiêm ngặt quy chế đấu thầu nhằm tránh thất thoát, lãng phí vốn đầu tư và nâng cao chất lượng hạ tầng cơ sở.

        Thứ hai, phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ cao nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thực tế cho thấy, phát triển các khu công nghiệp và công nghệ cao tỏ ra rất có hiệu quả trong thu hút đầu tư nước ngoài. Đầu tư trong các khu vực này, các nhà đầu tư không những được đáp ứng cơ sở hạ tầng kỹ thuật chuyên dụng, dịch vụ thuận lợi… mà sản phẩm của họ còn được tiêu thụ ở thị trường nội địa. Khi đầu tư có quy mô tăng lên thì yêu cầu phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ cao của Việt Nam cần được quy hoạch và có những chính sách thu hút đầu tư hợp lý cả về xây dựng cơ sở hạ tầng lẫn đầu tư vào khu công nghiệp, khu công nghệ cao từ đó làm giảm giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.

        Thứ ba, Việt Nam cần có chiến lược khuyến khích chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và ứng dụng nhằm nâng cao năng lực công nghệ quốc gia. Trong điều kiện tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn thấp, khả năng tài chính của các doanh nghiệp trong nước còn hạn hẹp, việc đầu tư vốn đổi mới công nghệ ở quy mô lớn rất khó thực hiện. Do đó, việc hướng đến kỹ thuật và công nghệ từ đầu tư nước ngoài trở thành yêu cầu tất yếu cho quá trình phát triển, nhất là việc tiếp cận công nghệ nguồn từ các nước phát triển. Qua nghiên cứu Hiệp định TRIMs, có thể nhận thấy việc khuyến khích hoặc yêu cầu chuyển giao công nghệ không bị cấm. Do đó, Việt Nam cần phải triệt để khai thác khía cạnh này. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tạo ra nhu cầu rất lớn về các sản hạn, trung gian hoặc sản phẩm phụ trợ. Đây là cơ hội tốt cho các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ sẵn sàng chuyển giao các công nghệ nếu việc chuyển giao đem lại lợi nhuận cho họ và được bảo vệ các lợi ích chính đáng. Điều này đòi hỏi cần phải có các quy định hợp lý, rõ ràng về quyền lợi mà họ được hưởng, đồng thời, chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phải được thực thi nghiêm ngặt, vì các yêu cầu này thường dễ bị phản ứng bởi các nhà đầu tư.

        Thứ tư, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Đây là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự hấp dẫn của môi trường đầu tư cũng như là điều kiện cần thiết cho việc chuyển giao công nghệ và cải tiến kỹ thuật. Việc đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề và đội ngũ kỹ sư có trình độ cao, có khả năng ứng dụng và cải tiến công nghệ cao là vấn đề cấp bách đặt ra đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục - đào tạo hiện nay.

        Thứ năm, quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu. Quy hoạch vùng nguyên liệu có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình vận hành và các dự án đầu tư. Do đó, Việt Nam cần có quy hoạch phát triển ngành, vùng căn cứ vào các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của ngành, vùng đó. Trong quy hoạch cần xác định rõ quy mô các vùng nguyên liệu để từ đó đề ra các giải pháp đầu tư phát triển các vùng nguyên liệu phù hợp. Sớm khắc phục triệt để tình trạng “quy hoạch treo”, “đền bù treo”, đặc biệt là khắc phục tình trạng quy hoạch mang tính chủ quan, dàn trải…. như thời gian qua, làm kém hiệu qua đầu tư nói riêng, phát triển kinh tế xã hội nói chung.

2. Nhóm giải pháp liên quan đến phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ

        Thứ nhất, xây dựng quy hoạch phát triển cho các ngành, trong đó định hướng sự phát triển ngành công nghiệp phụ trợ. Chẳng hạn, khi xây dựng quy hoạch cho ngành sản xuất, lắp ráp ôtô, xe máy, Việt Nam cần có chính sách khuyến khích, định hướng phát triển các doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện; các nhà máy sản xuất phôi thép, thép tấm, thép lá; nhà máy sản xuất các chế phẩm từ cao su tự nhiên.

        Thứ hai, nhà nước tạo điều kiện cho công nghiệp phụ trợ phát triển bằng cách tạo các điều kiện về đầu vào như đất đai và nguyên vật liệu, hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực, cung cấp thông tin công nghệ, tham gia triển lãm sản phẩm; không phân biệt đối xử doanh nghiệp trong nước với nước ngoài, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.

        Thứ ba, xây dựng các trung tâm đào tạo kinh doanh và công nghệ cũng như các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

        Thứ tư, đối với các doanh nghiệp trong nước, cần tạo dựng các sản phẩm chủ đạo, nổi trội. Bên cạnh đó, cần tạo dựng hình ảnh sản phẩm của mình nhằm thu hút các nhà đầu tư (người mua) như xây dựng  thương hiệu, khuếch trương sản phẩm. Một giải pháp quan trọng nữa là cần nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý cho ngang tầm với các doanh nghiệp nước ngoài cùng loại.

3. Nhóm giải pháp liên quan đến quản lý vĩ mô và chiến lược của doanh nghiệp

        Thứ nhất, tăng cường hơn nữa tính minh bạch và chiến lược của doanh nghiệp. Để tăng cường tính minh bạch và khả năng dự đoán của pháp luật, ngoài việc công khai lộ trình cam kết gia nhập WTO, Việt Nam cần công bố các chương trình luật pháp có liên quan cho tất cả các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động trong lập kế hoạch xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, cần cải cách các chính sách liên quan đến đầu tư theo hướng giảm thiểu, tiến tới xoá bỏ các rào cản trái với quy định của WTO.

        Thứ hai, xây dựng quy chế phê duyệt và quản lý dự án đầu tư thông thoáng đơn giản và hiệu quả. Quá trình thực hiện Hiệp định TRIMs khi gia nhập WTO đòi hỏi cần cải cách mạnh mẽ hành chính, nâng cao năng lực của các cơ quan có thẩm quyền liên quan, tạo dựng môi trường pháp lý ổn định ràng buộc trách nhiệm của cả cơ quan chức năng và nhà đầu tư… từ đó giảm được tối đa các rào cản hành chính và cũng đồng thời làm giảm chi phí đầu tư, tận dụng được các cơ hội đầu tư thuận lợi, nâng cao hiệu quả đầu tư cho các nhà đầu tư.

        Thứ ba, các doanh nghiệp trong nước cần chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết để đáp ứng yêu cầu của các đối tác nước ngoài nói riêng và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung.

        Hội nhập là con đường phát triển tất yếu nhưng không dễ dàng, bằng phẳng. Để hội nhập thành công, các doanh nghiệp phải chuẩn bị tốt về mọi mặt. Các chính sách biện pháp hỗ trợ (nếu có) của Chính phủ chỉ đóng vai trò là chất “xúc tác”, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả. Bản thân mỗi doanh nghiệp mới thực sự là người đóng vai trò quyết định đối với sự thành bại của chính mình trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Doanh nghiệp cần xác định đúng đắn chiến lược đầu tư phát triển của mình phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế nói chung của nền kinh tế. Trước hết, cần chú trọng tới việc phát triển nguồn nhân lực, đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị công nghệ sản xuất, thay thế kịp thời các thiết bị công nghệ lạc hậu, tạo nên bước đột phá về chất lượng và giá cả sản phẩm, nânng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đáp ứng tốt yêu cầu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất từ đó phát huy được lợi thế cạnh tranh và có thể tồn tại bền vững trong điều kiện hội nhập.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Đầu tư, Nxb. Công an nhân dân, 2006;

2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế (song ngữ), NXB Công an nhân dân, 2012;

3. Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, “Tác động của các Hiệp định WTO đối với các nước đang phát triển”, năm 2005;

4. Balasubramanyam, VN. 1991. “Đưa TRIMs vào sử dụng”, Phát triển thế giới, 19:9.

5. Correa, Carlos M. Và Nagesh Kumar. 2003. Bảo hộ đầu tư nước ngoài: Hàm ý của một chế dộ WTO và những lựa chọn về chính sách. London và New York; Zed Books.

6. Luật đầu tư năm 2005;

7. Luật đầu tư năm 2014;

8. Website: trungtamwto.org.


[1] Mashayekhi 2000;

[2] http://www.trungtamwto.vn/wto/hiep-dinh-ve-cac-bien-phap-thuong-mai-trims

[3] Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, “Tác động của các Hiệp định WTO đối với các nước đang phát triển”, năm 2005.

Bài viết cùng danh mục

0947202189